Huyền Thoại David Berkowitz (hay The Son of Sam hay Con Trai Của Sam)


Hàng loạt vụ giết người man rợ không rõ động cơ, mục đích xảy ra liên tiếp trong khoảng hai năm 1976 và 1977 tại New York. Cảnh sát đã cố gắng hết sức, song chỉ thu được những vỏ đạn 44 ly rơi vãi tại hiện trường. Kẻ giết người vẫn lạnh lùng ra tay, và đôi khi, hắn còn gửi thư cho nhà chức trách...





I. Cơn ác mộng bắt đầu

Đêm 29/7/1976, hai cô gái xinh đẹp Donna Lauria, 18 tuổi, và Jody Valenti, 19 tuổi, đang nói chuyện trong xe của Jody tại lối ra vào khu nhà mà Lauria sinh sống, tại Bronx, New York, bỗng thấy một người đàn ông tiến lại gần. Y thản nhiên rút từ trong túi giấy trên tay khẩu “Chó bò” 44 ly, vẩy 5 phát vào xe. Lauria gục tại chỗ vì bị bắn vào cổ. Jody trúng đạn vào đùi, chúi người ra phía trước, thân đè lên nút còi xe. Tên giết người vẫn điềm tĩnh kéo cò, dù súng đã hết đạn.

Jody cố lết ra khỏi xe và kêu cứu. Nghe tiếng súng nổ, bố Lauria chạy xuống. Trong bộ đồ pijama và chân không, ông lái xe như điên tới bệnh viện, hy vọng giữ được mạng sống cho con gái. Nhưng đã quá muộn.

Cảnh sát không tìm ra động cơ của vụ án mạng. Cuối cùng, họ phải đặt giả thiết rằng đó là một vụ thanh toán nhầm, hoặc thủ phạm là một kẻ điên khùng nào đó. Jody, trong trạng thái bị sốc nặng sau vụ tấn công, đưa ra một số nhận xét về nhân dạng của tên giết người. Song vì chưa bình tĩnh trở lại nên những lời miêu tả của cô không mấy giá trị.

Rạng sáng 23/10/1976, ba tháng sau vụ tấn công nói trên, Carl Denaro, 20 tuổi, kết thúc bữa ăn với các bạn tại một bar ở Queens và đưa cô bạn Rosemary Keenan về. Đôi trai gái dừng lại nói chuyện gần nhà Keenan. Đột nhiên, một người đàn ông không quen biết xuất hiện bên cửa ôtô. Họng súng đen ngòm chĩa vào xe nổ 5 phát, làm Carl bị thương ở đầu. Keenan hoảng hốt lái xe trở lại bar và rồi tới bệnh viện. Các bác sĩ đã phải thay thế phần xương sọ bị vỡ của Carl bằng một miếng kim loại. Vết thương đó ám ảnh anh suốt phần đời còn lại.

Gần một tháng sau, đêm 26/10/1976, Donna DeMasi, 16 tuổi và bạn là Joanne Lomino, 18 tuổi, trở về nhà sau khi xem phim. Chiếc xe buýt dừng lại gần nhà Joanne. Cô thấy một người đàn ông đứng trên vỉa hè gần đó. Dường như linh cảm thấy một điều gì không hay sắp xảy ra, cô giục bạn mình đi nhanh hơn. Nhưng người nọ cũng rảo bước theo họ.

Y tiến lại gần và tỏ vẻ muốn hỏi đường. Y bắt đầu: “Các cô có biết...”. Câu hỏi không có đoạn kết vì y đã rút từ trong người ra một khẩu súng và bắn thẳng vào họ. Cả hai đều trúng đạn, gục xuống. Tên sát nhân bắn nốt chỗ đạn còn lại vào một căn hộ trước mặt.



Nghe tiếng kêu của con gái, người nhà Joanne chạy tới. Xương sống cô bị viên đạn xé nát. Bác sĩ nói cô có thể sống sót nhưng liệt hoàn toàn. Donna may mắn hơn, bởi viên đạn dù xuyên qua người cô nhưng vẫn cách xương sống được 4 cm.

3 vụ tấn công kể trên xảy ra tại Bronx và Queens, New York. Cảnh sát chỉ tìm được duy nhất một viên đạn còn nguyên vẹn tại hiện trường.Mọi thứ lại trở lại yên tĩnh trong hai tháng kế tiếp, rồi tên giết người lại "đi săn" vào mờ sáng 30/1/1977.

II. Những nạn nhân tiếp theo

Đôi trai gái vừa bước vào xe thì hai phát súng vang lên như xé rách màn đêm. Viên đạn đi xuyên qua và phá nát tấm kính chắn phía trước. Christine ôm lấy đầu, cả hai phát đạn đều trúng người cô. John để cô nằm trên ghế xe phía trước và chạy đi tìm người giúp, anh cố gắng một cách tuyệt vọng ra hiệu cho những chiếc xe trên đường dừng lại, nhưng vô ích. Trong khi đó, người dân sống quanh khu vực nghe thấy tiếng súng và đã gọi cho cảnh sát. Vài giờ sau, Christine chết tại bệnh viện.

Vụ giết người rạng sáng 30/1/1977 này đã đưa đại úy Joe Borrelli vào cuộc. Ông và trung sĩ Joe Coffey bắt tay vào việc nghiên cứu vụ án với hai giả thuyết ban đầu: Tên giết người là một kẻ bị tâm thần, hoặc có thù oán cá nhân với Christine Freund.

Coffey nhận thấy viên đạn giết chết Christine không phải dạng thông thường. Nó được bắn ra từ một khẩu súng cỡ lớn và rất mạnh. Điều tra kỹ hơn, ông phát hiện rằng vụ giết người có nhiều chi tiết tương tự với vụ tấn công Donna Lauria, Donna LaMasi và Joanne Lomino. Bước đầu, Coffey kết luận, một tên điên khùng nào đó đã đi theo những cô gái đẹp và tìm cách giết họ.

Tối 8/3/1977, Virginia Voskerichian, cô nữ sinh xuất sắc của Đại học Barnard, trở về nhà sau buổi học. Tới phố Dartmouth, một người đàn ông xuất hiện trên hè phố, đi về phía cô. Đến gần mục tiêu, hắn rút từ trong người ra một khẩu 44 ly, nhằm thẳng vào Voskerichian bóp cò. Cô gái chỉ kịp giơ quyển sách trên tay lên che mặt. Viên đạn duy nhất trúng mặt nạn nhân, xuyên thẳng vào sọ. Voskerichian chết ngay tại chỗ.

Khi chạy trốn, tên giết người vượt qua trước mặt một người đàn ông đứng tuổi đã chứng kiến hắn gây án từ đầu đến cuối. Y thản nhiên ngoái lại cười: “Xin chào ông!”.

Xe tuần tra của cảnh sát bắt gặp một nam giới đang chạy trên đường, nhưng khi nghe thông báo trên radio rằng có một người phụ nữ vừa bị bắn tại phố Dartmouth, họ liền dừng việc truy đuổi và vội vã tới ngay hiện trường.

Cảnh sát dường như mất hết hy vọng. Họ không thấy chút thông tin nào có thể giúp họ lần ra kẻ sát nhân.

Cái chết của cô nữ sinh Voskerichian để lại trong lòng các thám tử nỗi đau khó tả. Joe Borrelli kể lại: “Nếu bạn quan tâm đến thám tử điều tra những vụ án giết người thì bạn sẽ thấy họ làm việc một cách vô cảm. Họ không muốn nhìn thấy xác nạn nhân, bởi biết rằng như thế thì tốt hơn. Trong vụ án Virginia, khuôn mặt xinh đẹp của cô gái đã bị biến dạng. Nhìn xác cô trên hè đường dưới tấm vải liệm, các thám tử thấy ruột gan mình lộn tùng phèo. Họ chẳng còn cách nào khác là phải ngoảnh mặt đi. Dù đã từng trải đến đâu, những thám tử có kinh nghiệm nhất vẫn không làm sao kiềm chế được”.

Hôm sau, cảnh sát phát hiện, viên đạn sát hại Virginia được bắn đi từ khẩu súng của tên giết Donna Lauria. Họ hiểu rằng mình đang lần tìm một tên sát nhân tâm thần, và hắn sẽ tiếp tục gây tội ác vào bất kỳ lúc nào có thể. Hắn sẽ lại bắn một phụ nữ hấp dẫn nào đó mà hắn tình cờ gặp trên đường. Làm sao chặn tay hắn lại?



Ngày tiếp theo, Cảnh sát trưởng New York tổ chức một cuộc họp báo để thông báo với người dân toàn thành phố về mối liên hệ giữa các vụ án đang xảy ra liên tiếp. Ông thông báo đặc điểm nhận dạng tên giết người: “Một người đàn ông da trắng, khoảng 25-30 tuổi, cao xấp xỉ 1,8 m, khổ người vừa phải, tóc sẫm màu”.

Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải tìm cho ra tên giết người này ngay lập tức, trước khi hắn tiếp tục gây tội ác. Thanh tra Timothy Dowd được giao nhiệm vụ tổ chức lại đội đặc nhiệm Omega và tuyển thêm những người có nhiều kinh nghiệm. Dowd, lúc đó 61 tuổi, vốn không phải là một cảnh sát bình thường. Ông có bằng đại học về hai ngôn ngữ Latinh, Anh và bằng master về kinh doanh tại Đại học City. Ông là người thực tế, quyết đoán trong mọi tình huống, và không biết lùi bước.

Đại úy Borrelli là một chỉ huy mới, và vụ án giết người hàng loạt này trở nên quá nặng nề đối với những kinh nghiệm còn khá ít ỏi của ông.

Và đúng như dự đoán của cảnh sát, tên giết người điên khùng lại xuất hiện. 3h sáng ngày 17/4/1977, một đôi tình nhân đang hôn nhau trong chiếc xe của họ đậu trên đường Hutchinson River, không xa nơi Donna Lauria bị giết vào năm trước. Họ là Valentina Suriansa, nữ diễn viên kiêm người mẫu thời trang, 18 tuổi, và Alexander Esau - chàng thợ máy xe tải 20 tuổi. Đột nhiên, một chiếc xe lù lù tới gần, gã lái bắn thẳng vào họ, mỗi người hai phát. Valentine chết ngay tại chỗ còn Alexander thì chết sau đó tại bệnh viện.

Vụ giết người mới lại một lần nữa khiến cảnh sát thêm lo lắng, bởi khó có thể tìm ra hung thủ trong số hàng triệu người có nhân dạng tương tự trong thành phố.

Nhưng lần này vụ án dường như có một chút thay đổi, đó là lá thư mà kẻ giết người để lại tại hiện trường, gửi cho đại úy Borrelli.

III. Bức thư của kẻ giết người

Đó là một bức thư đầy lỗi chính tả, mà phải khá vất vả, Borrelli mới hiểu được nội dung:

“Đại úy Joseph Borrelli thân mến,

Ta thực sự cảm thấy bị xúc phạm khi biết ông gọi ta là “kẻ ghét phụ nữ”. Ta không phải là người như vậy, nhưng quả thực ta là một con quỷ. Ta là “con trai của Sam” và ta khá hỗn xược.

Khi Sam say rượu, ông ta trở nên khùng điên. Ông ta đánh mọi người trong nhà. Đôi khi ông ta trói ta vào phía sau nhà. Những lần khác, ông ta nhốt ta trong garage của gia đình. Sam rất thích uống máu!

Sam ra lệnh: “Đi ra ngoài và tìm người mà giết. Ngay phía đằng sau nhà ta có một số kẻ đến ở, phần lớn là bọn trẻ tuổi. Hãy hãm hiếp và tàn sát chúng, để máu của chúng chảy hết ra mặt đất đến cạn kiệt và chúng chỉ còn lại là những đống xương".

Sam cũng tống ta vào căn phòng áp mái và khóa trái cửa lại. Ta không ra ngoài được, nhưng ta có thể nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy cuộc sống đang diễn ra quanh mình.

Ta thấy mình là một kẻ ngoài lề. Ta bắt được một làn sóng khác hơn những người khác, ta đã được lên chương trình để giết chóc.

Tuy nhiên, để khiến ta dừng lại, các ngươi sẽ phải giết ta. Tất cả cảnh sát, chú ý đây: Hãy bắn ta trước, bắn chết ấy, nếu không, các ngươi hãy tránh xa khỏi con đường ta đang đi hoặc các ngươi sẽ chết!

Bố Sam bây giờ đã già rồi, ông ta cần chút máu người để giữ lại tuổi trẻ của mình. Nhưng ông ta hay lên cơn đau tim quá. "Ôi, trái tim ta, nó đau quá con trai ạ!”.

Ta nhớ nhất là nàng công chúa xinh đẹp của mình. Cô ấy ngồi trong nhà của những quý bà của chúng ta. Nhưng rồi ta sẽ sớm gặp lại cô ấy thôi.

Ta là “con quỷ” - "Beelzebub" - con vật kếch xù mập mạp.

Ta rất thích đi săn, rón rén đi dọc đường phố, tìm kiếm một con mồi lớn; nó sẽ cho ta những miếng thịt ngon lành. Các cô cung nữ phục vụ các nữ hoàng là những kẻ đẹp nhất. Họ đẹp như vậy chắc là vì nhờ thứ nước mà họ uống. Ta sống để đi săn, cả cuộc đời ta đã như vậy rồi. Ta cần máu cho bố mình.



Ông Borrelli, ta không muốn giết thêm một ai nữa. Không. Nhưng ta lại phải tôn trọng bố mình.

Ta muốn làm tình với cả thế giới. Ta yêu mọi người. Ta không thuộc về trái đất này. Hãy cho ta trở lại với yahoo. Với những thần dân của nữ hoàng, ta yêu họ. Và ta cầu chúc cho họ có ngày Lễ phục sinh an bình và hạnh phúc.

Cầu Chúa đem lại an bình cho các người trong cuộc đời này và cuộc đời tiếp theo đó.

Ta muốn nói lời tạm biệt và chúc ngủ ngon.

Này lũ cảnh sát, hãy để ta ám ảnh các ngươi với những từ sau đây:

Ta sẽ trở lại! Ta sẽ trở lại! Sẽ được dịch thành - Bang, Bang, Bang - ugh!!

Gửi các người.

Quỷ"

Bức thư, không hề có dấu vân tay, được tiết lộ cho giới báo chí vào đầu tháng 6 năm đó. Và cả thế giới lần đầu tiên nghe được tên của kẻ giết người - “con trai của Sam”.

Một tuần trước khi xảy ra vụ giết cô gái người mẫu, Sam Carr - một công nhân đã nghỉ hưu đang sống tại Yonkers, New York, cùng vợ và các con đã nhận được một bức thư nặc danh nói về chú chó có tên Harvey, giống Labrador, của ông. Người viết thư than rằng con Harvey sủa nhiều quá.

Ngày 19/4, hai ngày sau vụ nổ súng, một lá thư khác cùng dạng chữ được gửi tới hộp thư của Sam Carr, trong đó viết:

“Ta đã rất lịch sự yêu cầu ngươi đừng để con chó tiếp tục gào hú suốt ngày đêm như vậy, nhưng các ngươi đã không làm được. Ta xin các ngươi đấy. Ta phải nói với các ngươi rằng tiếng sủa của con chó đã tàn phá gia đình ta. Chúng ta không có được sự bình yên, không được nghỉ ngơi.

Giờ thì ta biết ngươi là cái giống người gì và gia đình ngươi thuộc loại nào. Ngươi là kẻ ác độc và không thèm tôn trọng người khác. Ngươi không hề yêu thương bất kỳ một con người nào. Ngươi là kẻ ích kỷ, ông Carr ạ. Cuộc đời của ta đã bị tàn phá rồi. Ta không còn gì để mất nữa. Ta có thể thấy rằng sẽ không có sự yên bình cho cuộc đời ta, cho gia đình của ta, cho đến khi ta chấm dứt sự yên bình của gia đình ngươi”.

Hoảng sợ, Carr và vợ đã gọi cho cảnh sát, nhưng họ chỉ nhận được sự lắng nghe thông cảm.

10 ngày sau, Carr nghe tiếng súng nổ trong sân sau nhà mình. Tại đó, máu chảy ra như suối từ vết thương của con Harvey. Một người đàn ông mặc quần bò và áo sơ mi vàng bỏ chạy.

Con chó may mắn được cứu sống và cảnh sát tuần tra Peter Intervallo cùng Thomas Chamberlain lãnh trách nhiệm điều tra vụ án từ bức thư kỳ lạ.

IV. Con trai của Sam


Trong cuộc họp báo, ông Beame nói: “Những vụ án mạng thật khủng khiếp. Cảnh sát bị sức ép rất lớn, bởi mọi người ai cũng nghi ngờ khả năng của họ trong việc bắt được tên giết người. Lá thư gửi đại úy Borrelli lại càng làm mọi thứ rối tung lên. Đó quả là một cuộc chơi, trong đó chỉ một mình tên giết người dám thách thức và đối đầu với cả thành phố. Tuy hắn chỉ gửi thư cho một cảnh sát, nhưng tôi biết, lá thư đó không chỉ viết cho riêng ông, mà là cho mọi cảnh sát đang theo vết hắn, tất cả 25.000 người trong số họ”.



Gần 50 nhà bệnh học tâm thần đã được triệu tập để dựng lên bức tranh về tên giết người bí ẩn. Đến tháng 5/1977, họ đưa ra phác họa chung về hắn như sau: "Một kẻ bị chứng hoang tưởng và tâm thần phân liệt. Hắn tin rằng mình được thừa hưởng một năng lực ma quỷ. Nhiều khả năng đó là một kẻ cô đơn và có nhiều vấn đề trong quan hệ với người khác, đặc biệt là với phụ nữ".

Đội đặc nhiệm Omega liên tục nhận được nhiều cú điện thoại cung cấp thông tin cho vụ án. Nỗi hoảng sợ đã khiến cho sự nghi kỵ gia tăng. Ai sống ở New York lúc bấy giờ cũng phải nghe đến cái tên “Con trai của Sam”, và hình như ai cũng biết hắn (!): Hắn là người đàn ông rất hay về muộn, sống ở nhà bên; là người anh rể có tính cách quái gở hay táy máy súng đạn; là một tay chơi thường la cà tại những quán bar trong thành phố, có đặc điểm là rất ghét các cô gái đẹp... Danh sách những người bị tình nghi ngày càng dài thêm. Tất cả thông tin đều cần phải được kiểm tra lại - một khối lượng công việc khổng lồ cho bất kỳ đội điều tra nào.

Đồng thời với việc tìm hiểu về những đối tượng trong danh sách tình nghi, cảnh sát cũng tiến hành kiểm tra giấy đăng ký của những người dùng súng 44 ly, các bệnh nhân tâm thần nam giới. Đúng vào lúc ấy, hình như do sự bàn tán của dư luận, “Con trai của Sam” cảm thấy tự tin hơn, hắn quyết định viết thư cho Jimmy Breslin, phóng viên tờ Daily News:

"Xin gửi lời chào từ những mẩu bánh vụn rơi trên vỉa hè của thành phố New York, từ những con kiến sống bằng mẩu bánh vụn cũng như máu chảy ra từ những xác chết rơi vào đám bánh vụn ấy.

Xin gửi lời chào từ những cống rãnh của thành phố New York, trong đó chứa đầy phân chó, những thứ đáng nôn mửa, những chai rượu đã mốc meo, những bãi nước tiểu và máu. Xin gửi lời chào từ cống rãnh của thành phố New York, nơi nuốt lấy những thứ tinh túy ấy khi chúng bị những xe tải quét dọn cuốn trôi đi.

Các ngươi chớ tưởng rằng chỉ vì có một thời gian ngắn các người không nghe thêm thông tin gì mới từ ta, mà các ngươi cho rằng ta đã đi ngủ. Không, không phải, ta vẫn đang ở đây. Như một bóng ma lẩn quất trên các khu phố vào ban đêm. Khát, đói, và không bao giờ dừng lại. Ta luôn mong muốn làm vừa lòng Sam.

Sam là một kẻ hay khát. Ông ta sẽ không để ta chấm dứt giết chóc cho đến khi ông ta uống đủ lượng máu cần thiết. Hãy cho ta biết, Jim, ngươi có gì cho ngày 29/7? Các ngươi có thể quên ta đi nếu các ngươi muốn, vì ta cóc cần công luận. Nhưng các ngươi không được phép quên đi hình ảnh của Donna Lauria, và các ngươi không được để người khác quên đi hình ảnh của cô ấy. Cô ấy là một cô gái khá dễ thương đấy.

Chẳng lẽ vì không biết tương lai sẽ đem lại những gì mà ta nói lời tạm biệt và gặp lại các ngươi ở lần thực hiện công việc tiếp theo? Hay ta nên cho các ngươi biết rằng các người sắp được chiêm ngưỡng công việc của ta trong lần ra tay sắp tới? Hãy nhớ tới cô Lauria. Cám ơn.

Trong dòng máu của bọn chúng và từ những cống rãnh - sáng chế của Sam, 44 ly”.

Khi đăng lá thư này lên, tờ Daily News đã phải lược bớt vài phần do yêu cầu của cảnh sát. Phần đó có đoạn:

“Đây là một vài cái tên sẽ giúp đỡ các người trong việc điều tra. Hãy đưa cho thanh tra để NCIC (Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia Mỹ) sử dụng. Họ lưu trữ mọi thứ trên máy tính, mọi thứ. Và họ sẽ sử dụng thông tin này để điều tra một số vụ án khác. Nhờ đó, may ra họ có thể truy ra được những mối liên hệ.

Công tước của sự chết chóc, ông vua quỷ quái, 20 nguyên tắc của địa ngục. Và cuối cùng là John Wheaties, kẻ hãm hiếp và làm nghẹt thở những cô gái trẻ.

Tái bút: Hãy tiếp tục, hãy suy nghĩ một cách tích cực, hãy vận động đi, hãy gõ lên những chiếc quan tài...”.

Dấu vân tay của tên giết người đã lưu lại phần nào trên lá thư. Dù rằng dấu vết ấy chẳng có giá trị gì trong việc giúp tìm ra thủ phạm, nhưng nó vẫn được lưu lại để chờ so sánh với dấu tay của những kẻ tình nghi.

Ngày 10/6, một người đàn ông tên Jack Cassara, trú tại New Rochelle, nhận được một tấm thiệp chúc mừng ông đã khỏe trở lại. Tấm thiệp đó do một người tên là Carr, sống tại Yonkers, gửi. Trên có in hình chú chó chăn cừu giống Đức và dòng chữ: “Jack thân mến, tôi rất buồn khi nghe tin bạn bị ngã từ mái nhà xuống đất. Tôi chỉ muốn nói rằng tôi rất tiếc nhưng tôi tin rằng bạn sẽ nhanh chóng cảm thấy khỏe hơn. Xin hãy cẩn thận. Vì bạn sẽ phải nghỉ ngơi ở nhà trong một thời gian dài. Xin hãy cho tôi biết bà cô có cần gì không. Kính thư: Sam và Francis Carr”.



Cassara chưa hề ngã từ mái nhà xuống đất và cũng chưa bao giờ gặp ai có tên là Sam và Francis Carr. (Sam Carr là chủ của Harvey - chú chó can tội gây tiếng ồn và suýt bị "con trai của Sam" trừ khử). Ông liền gọi cho những người gửi thiệp theo số điện thoại họ để lại. Vợ chồng Carr đồng ý sẽ gặp Cassara tại nhà họ vào tối hôm đó. Hai người kể cho Cassaras nghe về lá thư kỳ lạ mà họ nhận được về chú chó Harvey và việc nó đã bị bắn như thế nào. Còn Sam Carr thì cho họ biết về chú chó chăn cừu giống Đức trong khu nhà cạnh đó, cũng đã bị bắn.

Wheat - con gái của Carr, đang giúp việc cho cảnh sát tại Yonkers - yêu cầu thám tử Intervallo và Chamberlain tới để điều tra, trong khi đó thì Cassara liên lạc với cảnh sát của New Rochelle.

Sau đó, con trai của Cassara là Stephen, 19 tuổi, đưa ra một ý kiến lạ lùng. Cậu ta nhớ tới một kẻ khá quái đản có tên David Berkowitz, người từng thuê một phòng trong căn hộ của họ vào đầu năm 1976. Người đàn ông đó không bao giờ quay lại để lấy số tiền 200 USD đặt cọc tiền nhà. Hắn luôn cảm thấy khó chịu với chú chó Harvey.

V. Những nạn nhân cuối cùng

Trong khi đó, hai thám tử Chamberlain và Intervallo thuộc Sở cảnh sát Yonkers đã tìm ra địa chỉ, số đăng ký của chiếc xe loại Ford Galaxy của Berkowitz và biết rằng bằng lái xe của hắn bị cấm sử dụng.

3h sáng 26/7/1977, cô Judy Placido, một phụ nữ trẻ có vẻ ngoài rất hấp dẫn, nhờ anh bạn Sal Lupo đưa cô từ sàn nhảy Elephas tại Queens về nhà. Lúc họ ra về, sàn nhảy này đã vắng tanh bởi tiếng vang “Con trai của Sam” đã giải tán mọi đám đông trong thành phố. Hai người lên ôtô.

Judy nhớ lại: “Đột nhiên, tôi nghe thấy có tiếng động lạ. Tôi không đau, chỉ cảm thấy âm thanh ấy như rung lên trong tai mình. Tôi đưa mắt sang Sal. Anh ấy nhìn tôi, mắt, miệng mở to kinh hoàng. Tôi không nghe thấy tiếng thét nào cả. Không hiểu tại sao tôi lại không gào lên. Cửa sổ trong xe đóng kín. Tôi không biết tiếng động ấy là thế nào. Nhìn vào gương xe, tôi thấy người mình đầy máu, tay phải không cử động được. Tôi mất phương hướng rồi ngất đi”.

Vì sự việc xảy ra quá nhanh, Sal ngỡ kẻ nào đó ném đá vào xe. Anh quay lại sàn nhảy nhờ giúp đỡ. Judy gục xuống vì mất máu. Sal cũng bị trúng đạn vào cánh tay trước. Hai người thoát chết một cách thần kỳ, dù bị bắn tới 3 phát súng.

Judy và Sal không cung cấp được thông tin gì về kẻ đã bắn họ.

Căn cứ vào bức thư gửi cho nhà báo Jimmy Breslin, trong có đề cập tới Donna Lauria - nạn nhân đầu tiên của "Con trai của Sam", bị giết vào ngày 29/7/1976 - cảnh sát lo ngại rằng hắn sẽ ra tay để “kỷ niệm” vụ giết người đầu tiên. Báo chí cũng như người dân toàn thành phố, thảy đều căng thẳng chờ đợi vụ giết người khác xảy ra.

Đội đặc nhiệm Omega tuyệt vọng. Họ không biết phải làm thế nào để bảo vệ những người phụ nữ trong thành phố trước bàn tay của một kẻ “giết người theo cảm hứng” như vậy. Thám tử Coffey thậm chí còn đề nghị cho một số cảnh sát đi xe chống đạn, đặt hình mẫu manequin ngồi bên cạnh để dụ tên sát nhân lộ mặt - quả là một trò chơi nguy hiểm chết người!

Dân chúng thành New York căng thẳng chờ đợi suốt ngày 29/7. Mọi bộ óc như muốn nổ tung vào bất kỳ thời điểm nào trong 24/24 giờ, song hôm đó tên giết người lại không ra tay. Hai ngày sau, đúng vào lúc cảnh sát bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm vì không có vụ án mạng nào xảy ra, "Con trai của Sam" đã xuống tay sát hại nạn nhân cuối cùng của hắn.

Sáng chủ nhật, ngày 31/7/1977, Stacy Moskowitz, một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp, ngồi cùng bạn trai mình là Bobby Violante trong xe ôtô. Họ vừa đi xem một bộ phim ở rạp và đang dừng lại tại một nơi yên tĩnh ở Gravesend Bay.

Violante rủ Stacy đi dạo trong công viên, cô hỏi: “Thế nếu "Con trai của Sam" đang nấp trong ấy thì sao?”. Violante trả lời: “Đây là Brooklyn chứ không phải Queens, em đừng lo". Họ ra khỏi xe và từ từ dạo bước về phía công viên. Violante cúi về phía Stacy để hôn cô, đúng lúc ấy, cô chợt trông thấy một cái gì đó. Stacy thì thầm: “Có ai đang quan sát chúng ta”. Bobby nhìn thấy một người đàn ông đứng ngay cạnh chỗ họ, nhưng rồi anh ta quay đi hướng khác và bước về phía bãi đỗ xe. Stacy sợ, cô muốn quay trở lại chỗ để xe ngay lập tức, nhưng Violante nài cô ở lại thêm vài phút nữa.

Anh kể lại: “Rồi bỗng nhiên tôi nghe thấy một tiếng động. Đầu tiên thì tôi cho rằng đó là tiếng thủy tinh vỡ. Nhưng sau đó tôi không còn nghe tiếng Stacy nữa. Tôi không còn cảm thấy gì cả, nhưng tôi thấy cô ấy từ từ ngã xuống trong vòng tay của tôi. Tôi không rõ ai trúng đạn trước, tôi hay cô ấy!". Anh bị bắn hai phát vào mặt, Stacy trúng một phát vào đầu. Violante mang máng nghe thấy tiếng cô rên rỉ. Anh cố lết ra phía xe, nhấn còi nhiều lần và gắng gượng bước đi để kêu cứu.

Cảnh sát tới ngay hiện trường. Stacy và Violante được đưa vào bệnh viện. 38 giờ sau, Stacy Moskowitz chết vì vết thương quá nặng. Bobby Violante sống sót nhưng mất mắt trái, mắt phải của anh chỉ còn lại 20% khả năng nhìn.



VI. Lộ diện


Cảnh sát tiếp xúc và nói chuyện với văn phòng cho thuê nhà tại số 35 đường Pine, nơi cư trú của Berkowitz. Tất cả những gì họ thu được từ văn phòng này là lời khẳng định rằng Berkowitz luôn trả tiền nhà đúng hạn và một tờ đơn xin việc của anh ta tại Hãng Dịch vụ An ninh IBI ở Queens. Từ những thông tin đó, các điều tra viên biết rằng Berkowitz có kiến thức về súng đạn.

Hãng IBI cho biết Berkowtiz bỏ việc từ tháng 7/1976 và chuyển sang làm cho một công ty kinh doanh taxi nào đó. Công cuộc tìm kiếm thông tin về Berkowitz bị tắc ở đây, song dường như hai viên cảnh sát đã phát hiện ra một điều gì đó và họ báo cáo cấp trên.

Vài ngày sau, cặp nạn nhân cuối cùng của "Con trai của Sam" bị bắn. Cacilia Davis, một phụ nữ người Australia di cư, người chứng kiến vụ tấn công, kể lại rằng, bà về nhà vào lúc trời còn tờ mờ sáng để dắt chó đi dạo, và cảm thấy như có ai đó đang đi theo mình. “... Hắn trốn sau một thân cây, nhưng cái cây đó quá nhỏ nên không che khuất nổi thân người hắn. Hắn cứ nhìn trừng trừng về hướng tôi đi. Sau đó, hắn tiến lại phía tôi, cười một cách kỳ lạ. Không thể nói đó là nụ cười ác độc được, nó tương đối thân thiện, chỉ có điều hơi khó hiểu”, Davis trình báo với cảnh sát.

Khi nhìn kỹ hơn, Davis có cảm giác là người đàn ông đang giấu một khẩu súng trong tay. “Tôi rất sợ, vội quay lại nhà mình, rồi thả xích con Snowball ra. Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng gì từa tựa như tiếng pháo nổ ở đằng xa... Chỉ đến sáng hôm sau, khi ra ngoài, tôi mới biết chuyện gì xảy ra. Tôi vẫn nhớ khuôn mặt của người đàn ông đó, có lẽ cho đến chết tôi cũng không thể quên được hắn”, Davis nhớ lại.

Cảnh sát tỏ ra nghi ngờ về việc Davis nhìn thấy kẻ giết người. Vì những gì bà miêu tả có phần không khớp với câu chuyện của các nhân chứng khác. Tuy nhiên, thông tin của Davis vẫn được giữ để tham khảo.

Đúng lúc đó, tin tức về Berkowitz dồn dập tới ban điều tra. Căn hộ mà hắn từng thuê trước đây tại số nhà 35 phố Pine bỗng bốc cháy. Phó cảnh sát trưởng Craig Glassman, ở cùng căn hộ, kể lại: “Tôi ngửi thấy có mùi khói ở đâu đó và chạy đến. Khi mở cửa ra thì đám cháy nhỏ đã kết thúc... Lửa không đủ mạnh để làm nổ viên đạn cỡ 22 ly trong cái nòng súng đã được đặt quay ra cửa nhà tôi”. Sau đó, Glassman cho cảnh sát xem những bức thư kỳ lạ mà Berkowitz đã gửi cho anh. Chữ viết trên đó giống hệt bức thư mà gia đình Carr nhận được. Một bức có đoạn: “Đúng vậy, tôi là một kẻ giết người, nhưng Craig ạ, những vụ giết người sẽ chỉ diễn ra khi anh ra lệnh cho tôi thôi”.

Cảnh sát tiến hành điều tra số vé gửi xe tại bãi đậu ôtô trước cửa căn hộ của bà Davis. Một vé trong số đó chính là của David Berkowitz.

Sau khi kiểm tra các chứng cứ và nhân chứng một lần nữa, ngày 10/8, Shea, Strano, William Gardella và John Falotico nhận nhiệm vụ theo dõi căn hộ số 35 phố Pine. Rất nhiều nhân viên an ninh khác đứng vòng ngoài vì ai cũng muốn tham gia vụ này.

Cảnh sát đã phải đợi nhiều giờ cho đến khi một người đàn ông có mái tóc màu tối bước ra khỏi nhà, tay ôm một túi giấy. Anh ta đi chầm chậm về phía chiếc Ford Galaxy của Berkowitz. Flotico đợi cho kẻ tình nghi đặt túi lên ghế ngồi của chiếc xe rồi mới ra lệnh: “Tiến lên”. Lực lượng an ninh tiếp cận chiếc Ford. Người ngồi trong xe không trông thấy họ. Khi Gardella kê súng vào đầu của kẻ tình nghi, ra lệnh: “Ngồi yên! Cảnh sát đây!”, hắn chỉ ngoảnh lại với một nụ cười ngớ ngẩn trên môi.

“Anh là ai?”, cảnh sát Falotico hỏi. Người đàn ông trả lời một cách lịch sự: “Ông biết rồi mà”. “Không, tôi chưa biết. Anh là ai?”. Vẫn nụ cười của một kẻ có thần kinh không bình thường, hắn trả lời: “Tôi là Sam. David Berkowitz”.

VII. Thù cha hận mẹ

Buổi thẩm vấn kết thúc, Berkowitz còn lịch sự chúc trung sĩ Coffey ngủ ngon. Coffey kể lại: “Lúc mới bước vào phòng, tôi cảm thấy vô cùng căm giận hắn vì những tội ác mà hắn gây ra. Nhưng khi đã nói chuyện với hắn rồi thì tôi lại thấy thương xót. Hắn chỉ là một cái xác thực vật, không ý thức được điều mình đang làm!”.

Vậy thì David Berkowitz là ai và cái gì đã khiến hắn trở thành "Con trai của Sam"?

David được một gia đình trung lưu nhận làm con nuôi từ bé. Cha mẹ nuôi đối xử với hắn rất tử tế. Họ luôn chăm bẵm và mua quà cho hắn. Nhưng gia đình thật của hắn thì gặp nhiều bất hạnh. Mẹ đẻ của David là Betty Broder. Bà sinh ra và lớn lên ở Bedford-Stuyvesant, Brooklyn. Vì nhà rất nghèo nên bà phải vật lộn với cuộc sống suốt thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ. Cha mẹ bà là người Do Thái, đã kịch liệt phản đối việc con gái cưới Tony Falco, một người Italy không theo đạo.



Hai người đã tích cóp được một số vốn để mở một chợ cá vào năm 1939. Rồi Betty sinh con gái Roslyn. Sau đó, cuộc hôn nhân của họ gặp nhiều trục trặc và Tony bỏ đi với một người đàn bà khác. Chợ cá phá sản, Betty phải nuôi Roslyn một mình.

Một thời gian sau, bà có quan hệ tình ái với một người đàn ông đã có vợ là Joseph Kleinman. Mối quan hệ của họ gặp rắc rối khi Betty có mang. Kleinman không chịu chu cấp cho đứa trẻ và dọa sẽ bỏ Betty nếu bà không phá thai. Nhưng cuối cùng, David vẫn ra đời vào ngày 1/6/1953. Bà mẹ đành phải từ bỏ đứa con mình vì cảm thấy không thể nuôi nổi nó. Bù lại bà cảm thấy yên tâm khi có một gia đình người Do Thái tử tế nhận nuôi đứa trẻ. Sau đó, bà tiếp tục quan hệ với Kleinman cho đến khi ông chết vì bệnh ung thư, năm 1965.

David đã rất may mắn được vợ chồng Nat và Pearl Berkowitz đón về nuôi. Hắn có một tuổi thơ yên bình tại khu Bronx. Dạo đó, hắn không bộc lộ dấu hiệu nào cho thấy sẽ trở thành kẻ sát nhân sau này, ngoại trừ một việc là hắn thích ở một mình, dù rằng bố mẹ nuôi của hắn rất quảng giao.

Vốn có thân hình to con, David luôn cảm thấy khác các bạn cùng trang lứa và tự ti về mình. Suốt thời thơ ấu, lúc nào hắn cũng thấy không thoải mái khi phải ở gần người khác. Môn thể thao ưa thích của hắn là bóng chày.

Hàng xóm của Berkowitz nhớ rằng hắn là một cậu bé xinh xắn nhưng khá nóng tính và hay đánh những đứa trẻ hàng xóm một cách hung dữ mà chẳng vì lý do nào xác đáng. Hắn rất hiếu động và không chịu nghe lời Nat và Pearl.

David không hề biết rằng Pearl bị ung thư vú, vì thế khi biết được tin đó vào lúc bà sắp chết, hắn đã bị sốc rất nặng. Hắn hoảng hốt chứng kiến sức khỏe mẹ nuôi ngày càng suy kiệt. Và hắn gục hoàn toàn khi Pearl mất vào mùa thu năm 1967.

Năm David lên 11-12 tuổi (khoảng năm 1964-65), cha mẹ nuôi hắn có ý định chuyển nhà tới những vùng phát triển về kinh tế hơn. Nhưng Pearl đã chết trước khi họ kịp chuyển nhà. Chỉ còn David và cha nuôi sống trong căn hộ mới.

Mẹ nuôi mất, tình hình của David ngày càng trở nên tồi tệ. Hắn học đuối dần, lòng tin của hắn vào Chúa trời trong đạo Do Thái bị lung lay. Hắn bắt đầu mơ hồ nghĩ rằng cái chết của bà mẹ nuôi là một phần trong kế hoạch của ai đó với mục tiêu chính là trừ khử hắn. Hắn càng ngày càng sống khép kín hơn với những ý nghĩ của riêng mình.

Năm 1971, Nat đi bước nữa với một người phụ nữ. Bà mẹ kế không nói chuyện được với David. Cuối cùng, hai người dọn tới Florida ở, không mang hắn theo. Hắn rơi vào hoàn cảnh sống mà không có sự giúp đỡ, không có định hướng cũng như mục tiêu. Hắn cứ tồn tại như thế cho đến khi cuộc sống trong ảo tưởng của hắn lớn hơn cuộc sống đời thực.

David từng cảm mến một cô gái tên Iris Gerhardt, nhưng đó là tình cảm đơn phương của Berkowitz. Iris chỉ coi hắn là bạn. Hắn từng học một số lớp ở Đại học Cộng đồng Bronx, và hoạt động đó thực chất là để làm hài lòng cha nuôi hắn nhiều hơn.

David gia nhập quân đội năm 1971 và tại ngũ 3 năm. Hắn được xem là một tay thiện xạ, đặc biệt ở môn súng trường. Thời gian phục vụ trong quân đội, hắn cải đạo từ Do Thái giáo sang Thiên Chúa giáo, nhưng nhanh chóng cảm thấy chán nản.

Cũng đã có lúc, David tìm gặp lại mẹ đẻ của mình và chị gái là Roslyn. Họ làm mọi việc để hắn thấy thoải mái cạnh những người thân đích thực. Nhưng dần dần, David cũng trở nên xa lánh mẹ và chị, hắn chẳng buồn đến thăm họ nữa.

Sự buồn bực và tức giận đối với những người phụ nữ mà hắn biết và ảo tưởng của trí não trong tình trạng không bình thường đã biến Berkowitz thành người theo xu hướng bạo lực khi hắn xuất ngũ năm 1974. Hắn càng hận thù phụ nữ hơn khi lần quan hệ tình dục đầu tiên và duy nhất của hắn với một gái làng chơi tại Hàn Quốc đã khiến hắn mắc bệnh da liễu.

Trước khi bắt đầu giết người, David là thủ phạm gây ra tới 1.488 vụ cháy tại New York. Cảnh sát biết được chính xác con số này nhờ vào những dòng ghi chép cẩn thận của hắn trong nhật ký. Trong cuốn sổ tay đó, hắn viết: “Phần lớn những kẻ tạo ra các vụ hỏa hoạn cảm thấy thích thú với cảm giác họ có trách nhiệm trước sự náo nhiệt và mức độ tàn phá mà ngọn lửa gây ra. Chỉ cần quẹt diêm một cái là họ có thể kiểm soát cả một xã hội mà bình thường khó có ai kiếm soát được. Họ sắp đặt và tạo ra cho hiện trường vụ cháy những tiếng gào thét, những đơn vị cứu hỏa với những tên lính cứu hỏa hốt hoảng, những đám đông người bàn tán, sự tàn phá các tài sản cá nhân và đôi khi là cả vài mạng người...”.



VIII.Tuyệt vọng

Quyển nhật ký của David cho thấy, tháng 11 năm đó, trí óc của Berkowitz ở vào giai đoạn khủng hoảng khi hắn viết cho cha nuôi (ông Nat Berkowitz, đang sống tại Florida): “New York mùa này rất lạnh và ảm đạm, nhưng không sao, nó hợp với tâm trạng u ám của con. Bố ạ, thế giới đang ngày càng trở nên tối tăm hơn. Con có thể cảm thấy điều đó mỗi lúc một rõ ràng. Người ta càng ngày càng căm ghét con hơn. Thậm chí bố không thể tưởng tượng được là một số người trong bọn họ căm ghét con tới mức nào đâu. Rất nhiều người muốn giết con. Con thậm chí không biết họ, nhưng họ vẫn căm ghét con. Phần lớn trong số họ đều rất trẻ. Con đi dọc hè phố, họ nhổ nước bọt và ném đá vào người con. Các cô gái thì nói rằng con rất xấu trai, và chính họ làm con cảm thấy chán nản nhất. Bọn đàn ông thì chỉ cười nhạo con. Tuy vậy, mọi thứ sẽ thay đổi theo hướng tốt hơn một cách nhanh chóng thôi”.

Lá thư đó quả là một lời kêu cứu. Sau khi viết thư, David đã giam mình trong căn hộ nhỏ của hắn suốt gần 1 tháng trời, chỉ ra ngoài để ăn uống. Hắn viết rất nhiều câu quái đản lên tường như: “Trong cái lỗ này có một quỷ vương đang sống. Hãy giết người đi, vì chủ của ta. Ta biến những đứa trẻ thành những tên sát nhân”.

Giáng sinh năm 1975, David thú nhận với bác sĩ tâm lý của hắn rằng hắn sắp sửa đầu hàng lũ ma quỷ và hy vọng bằng việc đó, ma quỷ sẽ không tiếp tục tra tấn hắn nữa. Vào đêm Noel, hắn đã ở trong tình trạng bất ổn thực sự về tinh thần và tình cảm. Khi màn đêm buông xuống, hắn mang theo mình một con dao loại lớn (loại của thợ săn) và lái xe đi rình giết bất cứ một phụ nữ nào hắn gặp. Hắn cho rằng ma quỷ sẽ dẫn đường chỉ lối cho hắn biết người nào là nạn nhân của hắn.

Đêm đó, David tới thành phố nơi hắn từng sống với cha nuôi sau khi Pearl qua đời. Một người phụ nữ rời khỏi tiệm tạp hóa. Đột nhiên, David nghe thấy bọn ma quỷ ra lệnh cho hắn: “Phải giết cô ta”.

Hắn nhảy ra khỏi xe, chạy đuổi theo người phụ nữ, đâm con dao săn to bản vào lưng cô và hắn rất ngạc nhiên trước phản ứng của cô. Sau này, hắn khai với cảnh sát: “Tôi đâm dao vào người cô ta, nhưng cô ta thì lại chẳng làm sao cả. Cô ta chỉ quay lại và nhìn vào mặt tôi”. Rồi cô thét lên và hắn bỏ chạy. Cảnh sát không sao xác định được câu chuyện hắn kể có thật hay không.

Sau đó, hắn nhìn thấy một phụ nữ trẻ tuổi khác. Hắn giấu con dao cho đến khi tới gần cô và chém vào đầu cô từ phía đằng sau. Dù mới 15 tuổi và ngay sau nhát chém đầu tiên đã bị thương rất nặng, nhưng Michelle Forman (tên cô gái) đã chống cự quyết liệt. Tiếng hét của cô làm David sợ và giúp cô có đủ thời gian để gắng sức chạy tới căn nhà gần đó kêu cứu. Cô bị chém tất cả 8 nhát.

Cuộc tấn công đầu tiên này làm con quỷ dữ trong đầu David dịu đi, hắn cảm thấy thoải mái hơn. Sau vụ tấn công, hắn đi ăn bánh hamburger và khoai tây chiên.

Sau hai vụ vào đêm Giáng sinh, David quay trở lại làm công việc bảo vệ tại hãng Dịch vụ An ninh IBI. Tháng 1 năm đó, hắn chuyển từ căn hộ nhỏ của mình tại Bronx đến trú tại căn hộ của gia đình Jack và Nann Cassara; hắn quyết định thuê nhà trong hai năm và trả trước 200 USD để đặt cọc.

XI.Chứng ảo giác quái quỷ

Chú chó giống Đức của Cassara rất hay sủa và hú, làm những con chó quanh đó sủa theo. Đầu óc bệnh hoạn của David thì lại coi chó là hình ảnh của quỷ dữ và mỗi khi con vật sủa thì hắn nghĩ rằng ác quỷ đã sai khiến hắn đi kiếm máu về cho chúng, máu của những người phụ nữ thật đẹp.

Berkowitz cảm thấy đã quá sức chịu đựng: “Tôi đi theo đại lộ Coligni về nhà vào lúc 6h30" vào buổi sáng. Và con chó lại tiếp tục sủa. Ban ngày, tôi đi làm, còn buổi tối thì tiếng sủa của nó bám chặt lấy đầu óc tôi. Nó làm tôi phải gào lên, van xin đừng làm ồn nữa, nhưng cái tiếng sủa quái ác ấy không chấm dứt.

Mấy con quỷ không bao giờ dừng lại. Tôi không sao ngủ được. Tôi không còn sức để chống đỡ nữa, chỉ còn đủ khả năng lái xe đi làm và sau đó là từ chỗ làm trở về nhà, tôi đã mấy lần suýt nữa tự tử trong xe. Tôi cần được ngủ... nhưng những con quỷ chẳng cho tôi lấy một phút yên thân”.

Sau 3 tháng, David chuyển ra khỏi nhà của Cassara và tới ngụ tại căn hộ số 35 đường Pine ở Yonkers mà không hề yêu cầu trả lại số tiền hắn đặt cọc trước đó. Gia đình Cassara đã đóng một vai trò làm trầm trọng thêm cuộc sống của Berkowitz, hắn nhớ lại: “Khi tôi mới chuyển tới đó, gia đình Cassara có vẻ rất vui và không thích sự ồn ào. Nhưng hóa ra tôi bị họ lừa, họ nói dối. Tôi đã tưởng rằng họ là thành viên của nhân loại. Nhưng chúng đâu có phải như vậy! Đột nhiên, gia đình Cassara thể hiện sự ma quỷ của mình ra ngoài. Chúng hú, chúng hét lên: "Máu và chết!" Chúng gọi tên của những con quỷ chúa! Quỷ máu, và John Wheaties, tướng Jack Cosmo”. Ảo giác trong David càng ngày càng phát triển, hắn gọi Cassara là tướng Jack Cosmo, chỉ huy trưởng của những con chó ma quỷ vẫn chạy rông khắp New York. Những con quỷ thường xuyên cần máu người và David không còn cách nào khác là phải cung cấp cho chúng, bằng những cuộc tấn công mới.

Xung quanh căn hộ tại phố Pine của David cũng có chó. Đó là Harvey - con chó giống Labrador, lông đen của Sam Carr. David đã cố gắng giết "con quỷ ẩn trong Harvey" bằng một cốc coktail Molotov, nhưng không thành, vì thế hắn bắn thẳng vào nó.



Trong sự hình dung của David, con người Sam Carr là nơi ẩn náu của một ác quỷ đầy quyền lực tên là Sam, con quỷ này làm việc cho tướng Jack Cosmo (!). Khi David tự xưng là "Con trai của Sam", chính là hắn muốn đề cập tới con quỷ trong Sam Carr. David cảnh báo mọi người rằng họ phải cẩn thận với ông ta. “Sam và những con quỷ trong người hắn phải chịu trách nhiệm về rất nhiều vụ sát nhân”. Không may là trong cái danh sách do trí tưởng tượng của David tạo dựng nên, chỉ có Chúa trời mới có thể giết chết Sam vào Ngày Tận thế. Rất nhiều lần đầu óc bệnh hoạn của David nghĩ rằng Sam là con quỷ lớn nhất.

Ngày trước khi giết chết Donna Lauria, David bỏ việc và chuyển sang làm tài xế taxi. Hắn nói rằng mình không muốn giết Donna và bạn của cô là Jody, nhưng con quỷ trong người đã bắt hắn phải làm như vậy. Gây tội ác xong, hắn cảm thấy vừa mệt mỏi, vừa thỏa mãn như thể làm xong một công việc tốt. Hắn đã khiến Sam hài lòng đến mức gả Donna cho hắn. Sam làm David tin rằng, một ngày kia, Donna sẽ tỉnh dậy sau cái chết và yêu hắn.

Bệnh của David được coi là chứng tâm thần phân liệt. Sự khó khăn trong quan hệ của David với những người xung quanh đã khiến hắn càng ngày càng xa lánh mọi hoạt động xã hội. Và đó là một môi trường tốt cho sự phát triển của những ảo tưởng điên loạn. Cuối cùng thì những ảo tưởng ấy cũng trở thành hiện thực và David sống trong một thế giới chứa đầy những ma quỷ do đầu óc hắn tạo ra. Trạng thái tinh thần ấy ngày càng tồi tệ, thì sự căng thẳng cũng ngày càng tăng dần và chỉ giảm đi khi hắn tấn công người khác thành công. Tạm thời trong khoảng thời gian ngắn sau khi hắn ra tay, những đợt căng thẳng trong đầu óc hắn giảm dần. Nhưng rồi sự căng thẳng quay trở lại và quá trình đó cứ thế lặp đi lặp lại.

X.Bị bắt là thoát nợ

Khi bị bắt, David tỏ ra rất bình tĩnh. Hắn thậm chí còn mỉm cười. Có vẻ như là hắn cảm thấy nhẹ nhõm vì bị bắt. Có lẽ hắn cho rằng cuối cùng khi hắn vào tù thì những con chó và lũ quỷ dữ sẽ không sủa đòi máu nữa.

Tuy nhiên, theo bác sĩ David Abrahamsen, chuyên gia giám định pháp y của cảnh sát, “ở bị cáo, có biểu hiện của trạng thái ảo tưởng, nhưng những dấu hiệu đó không liên quan gì tới việc anh ta không ý thức được việc mình đang làm và không thể đứng trước tòa… Bị cáo là người có trạng thái bình thường như mọi người khác, dù rằng anh ta tương đối dễ bị kích động”.

Cuối cùng thì điều đó cũng không có nhiều ý nghĩa vì David Berkowitz đã nhận tội. Hắn nhận bản án 365 năm tù.

Năm 1979, Robert Ressler, cựu sĩ quan của Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI), đã phỏng vấn Berkowitz tại nhà tù Attica 3 lần. Trong tù, Berkowitz được phép dùng một quyển sổ nhỏ để tập hợp lại tất cả những bài báo viết về các vụ giết người. Hắn sử dụng sổ đó để giúp cho sự tưởng tượng điên khùng của mình tồn tại.

Ressler cũng khẳng định rằng, Berkowitz thực chất đã dựng lên câu chuyện về những con chó ma quỷ để tự bảo vệ bản thân mình trong trường hợp bị bắt. Hắn tin rằng với câu chuyện đó, hắn sẽ bị coi là kẻ thần kinh nặng. Hắn đã thú nhận trong một cuộc nói chuyện với Ressler, rằng lý do chính khiến hắn bắn những phụ nữ mà mình gặp trên đường là vì lòng hận thù mẹ đẻ, và vì hắn không sao có được quan hệ tốt đẹp với những người đàn bà.Hắn nói rằng hắn tự cảm thấy rất hưng phấn sau khi rình mò và bắn vào các nạn nhân của mình. Cứ sau mỗi vụ như vậy, hắn lại thủ dâm.

Hắn cũng cho Ressler biết, việc rình mò các nạn nhân nữ đã trở thành một thú vui mang tính phiêu lưu của hắn. Nếu hắn không tìm được một nạn nhân, hắn sẽ quay trở lại những nơi hắn từng giết người trước đó và cố gắng nhớ lại cảnh hắn ra tay. Hắn rất thỏa mãn khi nhìn thấy máu khô còn sót lại trên hiện trường, dấu phấn của cảnh sát vạch quanh xác nạn nhân. Cũng như hắn, nhiều tên giết người khác thường trở lại nơi mình gây án không phải vì chúng cảm thấy hối hận mà vì chúng khoái trá và những lần như vậy làm cho chúng cảm thấy bị kích thích.

Hắn muốn tới đám tang của những nạn nhân, nhưng lại sợ cảnh sát nghi ngờ mình. Tuy nhiên, hắn cũng hay lang thang ở những quán ăn quanh đồn, hy vọng có thể nghe lỏm được tin tức của cảnh sát nói về việc điều tra những tội ác do hắn gây ra. Hắn cũng đã nhiều lần cố gắng tìm cho ra nơi chôn cất các nạn nhân.

Giống như nhiều tên giết người hàng loạt khác, hắn cảm thấy sự tự mãn của mình được vuốt ve mỗi khi đọc thấy một bài báo nói về những vụ án mạng mà mình gây ra. Sĩ quan Ressler kể lại: “Sau khi biết báo chí gọi mình là "Con trai của Sam", hắn khoái trá tới mức còn định lấy danh hiệu đó làm tên thật của mình và còn tìm cách tạo ra một logo cho nó”



XI.Thế giới hoang tưởng

Mùa hè 1971, Berkowitz nhập ngũ; gã bắn rất giỏi, đặc biệt là với các loại súng ổ quay. Thời gian này, gã đã biết đến mùi đàn bà khi quan hệ với một gái điếm tại Hàn Quốc. Vì lần mây mưa duy nhất này, gã bị bệnh hoa liễu. Trở về, Berkowitz tình cờ gặp lại được người mẹ ruột của mình. Bà Betty Broder cùng với người chị gái Roslyn của gã làm mọi thứ để Berkowitz trở lại cuộc sống bình thường nhưng thất bại.

Giận dữ và thất vọng về phụ nữ cùng với đầu óc hoang tưởng, Berkowitz dần sa vào con đường bạo lực sau khi xuất ngũ năm 1974. Trước khi thực hiện vụ giết người đầu tiên, Berkowitz đã bắn 1.488 phát trong lòng New York. Gã ghi lại tất cả trong nhật ký.

Berkowitz thực sự hoảng loạn sau khi Nat chuyển đến Florida. Trong thư gửi cha nuôi, gã rên rỉ: "New York lạnh và tối quá nhưng chẳng hề gì bởi nó phù hợp với tâm hồn ẩm ướt của con. Bố ơi, thế giới đang tối dần đi. Tất cả mọi người đều căm thù con. Bố không thể tưởng tượng họ ghét con đến mức nào đâu. Rất nhiều người muốn giết con. Thậm chí con không biết họ là ai nhưng họ vẫn cứ ghét con. Phần lớn họ còn trẻ. Khi con ra đường, họ phun nước bọt vào người con. Lũ con gái bảo con là một tên xấu xí, họ làm phiền con nhiều nhất. Đám con trai thì cười nhạo".

Gửi thư cho Nat xong, Berkowitz giam mình trong nhà gần một tháng. Trên tường nhà, gã vẽ những dòng chữ rùng rợn: "Hãy giết người cho đấng bề trên. Hãy biến lũ trẻ thành sát thủ". Giáng sinh 1975, Berkowitz phàn nàn với bác sĩ tâm lý rằng gã đang bị những linh hồn quỷ điều khiển; chúng chỉ thôi làm gã đau khổ nếu gã nghe chúng sai khiến. Đêm Giáng sinh, gã khủng hoảng thực sự. Lúc trời chập choạng, gã giắt con dao vào lưng và ra đi. Linh hồn quỷ dữ sẽ mách gã đâu là cô gái cần phải giết.

Khuya đêm ấy, trên đường trở về căn hộ tại Co-Op, gã gặp một phụ nữ đi ra từ tiệm tạp hóa. Những linh hồn quỷ thì thào: "Vật hy sinh đã đến". Gã liền nhào tới đâm túi bụi. "Tôi đâm tới nhưng cô ta chẳng phản ứng gì. Một hồi sau, cô ta quay lại, trừng mắt nhìn tôi rồi gào lên và bỏ chạy" - Berkowitz kể; cảnh sát sau đó không tìm được những cơ sở để chứng minh câu chuyện này là có thực.

Cũng trong đêm đó, gã còn tấn công một cô gái khác. Nạn nhân này có thực, tên là Michelle Forman, 15 tuổi. Michelle dính 6 nhát đâm nhưng thoát được vào khu chung cư gần đó. Vụ tấn công Michelle khiến tâm hồn Berkowitz "dịu lại" đôi chút, gã quay ra phố tìm bánh mì và cá chiên.

XII. Những linh hồn quỷ

Sau đêm Giáng sinh, Berkowitz trở lại công việc tại hãng bảo vệ IBI. Đây cũng là lúc gã đến thuê phòng tại nhà Jack Cassara. Gã muốn thuê trong hai năm và không ngần ngại chồng 200 USD tiền cọc.

Chú chó giống Đức của gia đình Cassara sủa suốt ngày và chú chó hàng xóm không ngớt sủa lại. Với trí tưởng tượng bệnh hoạn, Berkowitz cho rằng linh hồn quỷ ngự trị trong những chú chó. Tiếng sủa là mệnh lệnh khiến hắn đi tìm máu phụ nữ trẻ.

Gã nhớ lại: "Tôi phải nghe tiếng sủa suốt ngày đêm. Nhiều lúc tôi gào lên, van nài chúng ngơi nghỉ nhưng không thể. Có một tối trở về nhà, tôi suýt tự tử trong xe hơi. Tôi cần giấc ngủ nhưng lũ quỷ không cho tôi một giây yên bình".

Sau ba tháng, Berkowtiz chuyển đến số 35 Pine ở Yonkers bởi gia đình Cassara là một nỗi ám ảnh khủng khiếp trong tâm hồn gã: "Khi tôi đến, nhà Cassara có vẻ rất yên tĩnh. Nhưng họ đã lừa tôi. Tôi từng nghĩ họ là người nhưng thực ra họ là quỷ. Họ rên rỉ và sủa hằng đêm". Berkowitz tưởng tượng rằng Cassara là tướng Jack Cosmo, tư lệnh của loài quỷ mình chó. Loài quỷ này luôn cần máu và nhiệm vụ của Berkowitz là giải cơn khát cho chúng.

Chỗ ở mới của Berkowitz tại 35 Pine cũng bị lũ chó quấy rầy, trong số này có chú Harvey của Sam Carr. Berkowitz từng nhử Harvey bằng món cocktail tẩm độc nhưng thất bại, cuối cùng, hắn quyết định nói chuyện bằng một viên đạn chì. Sam Carr, theo trí tưởng tượng của Berkowitz, là một con quỷ hung bạo dưới quyền Jack Cosmo.

Một ngày trước khi giết Donna Lauria, Berkowitz nghỉ việc ở IBI để làm tài xế taxi. Gã bảo không muốn bắn Lauria và cô bạn Jody nhưng gã không thể cưỡng lệnh được.

Sự cô đơn chính là mảnh đất màu mỡ cho tâm hồn hoang tưởng phát triển. Gã luôn căng thẳng và chỉ được thanh thản sau mỗi cuộc tập kích. Những vụ tấn công giúp giải tỏa stress nhưng sự căng thẳng lại tăng lên sau đó, thế là gã phải tiếp tục giết chóc.

Lúc bị bắt, Berkowitz rất bình thản. Gã tin rằng loài chó ác quỷ sẽ không thể vào nhà tù để quấy rầy gã. Vì thế, trước tòa, gã bình thản nhận tội và mỉm cười khi nghe mức án 365 năm tù.

XIII. Chỉ là chuyện bịa

Vào năm 1979, Robert Ressler, một cựu nhân viên FBI, sau ba lần phỏng vấn Berkowitz tại nhà tù Attica Prison đã khám phá ra một sự thật khác.

Câu chuyện về những linh hồn quỷ là tác phẩm mà Berkowitz dựng lên nhằm bảo vệ gã trong trường hợp bị bắt. Nhà chức trách có thể coi gã là một bệnh nhân tâm thần. Thực ra, lý do khiến gã giết phụ nữ là do lòng căm thù người mẹ ruột và vì bất lực trong việc quan hệ với phụ nữ. Gã chỉ đạt được cảm giác cực khoái khi giết phụ nữ; sau mỗi lần ra tay, gã thường ngồi trong xe và thủ dâm.

Berkowitz thú nhận rằng việc lén theo các cô gái trong đêm là những chuyến phiêu lưu đầy thú vị. Nếu không có mục tiêu để hạ sát, gã sẽ trở lại địa điểm gã từng thủ ác trước đây để cho hồi ức sống lại, để được thư giãn, được khoan khoái.

Sau khi giết người, gã luôn đến các quán ăn gần đồn cảnh sát với hy vọng được nghe những tin tức kích động. Một vài lần, Berkowitz muốn dự đám tang các nạn nhân nhưng gã sợ bị nghi ngờ. Gã cũng từng cố gắng tìm mộ của họ nhưng thất bại.

Giống như những kẻ giết người hàng loạt khác, Berkowitz nuôi dưỡng cái tôi bệnh hoạn bằng những gì mà báo chí nói về những tội ác của mình. Gã có ý tưởng viết thư cho Daily News sau khi đọc về Jack the Ripper, một sát thủ bí ẩn từng được nhiều lần dựng thành phim (bản mới nhất là From Hell có sự tham gia của tài tử Johnny Depp). Sau khi mọi người bắt đầu gọi Berkowitz là "Con trai của Sam", gã đã rất thích thú và thậm chí còn thiết kế logo cho mình.
Đoạn kết


Ngày 9/7/2002, Berkowitz dự phiên tòa ân xá đầu tiên tại trại cải tạo Sullivan ở khu Fallsburg, New York. Ủy viên hội đồng xét xử Irene Platt hỏi lý do vì sao gã không chịu ra tòa vào tháng 6 mà chọn tháng 7.

Berkowitz đáp: "Tôi từng nghĩ sẽ tốt cho các gia đình nạn nhân nếu tôi không hầu tòa nhưng giờ đây, tôi thấy mình phải trình diện để xin lỗi. Tôi không xứng đáng được ân xá".

Platt hỏi lý do tại sao, gã đáp: "Vì những tội lỗi mà tôi đã gây ra và vì những mất mát của các nạn nhân. Tôi ước mình được trở lại để thay đổi quá khứ. Hy vọng 25 năm sau những bi kịch tồi tệ đó, cuộc sống của mọi người, tôi, gia đình tôi, gia đình các nạn nhân đã trở lại bình thường".

Platt hỏi về động cơ giết người, Berkowitz gào lên: "Thưa bà, tôi xin lỗi. Tôi không biết, không hiểu điều gì đã xảy ra. Đó là một cơn ác mộng. Cuộc sống của tôi vượt ra ngoài tầm kiểm soát vào lúc đó và giờ đây, tôi chẳng biết làm gì ngoài việc tự dằn vặt mình".

"Lúc đó, ông đau khổ về điều gì?" - Platt tiếp.

"Đầu óc tôi chẳng thể tập trung. Tôi nghĩ mình là một chiến binh của quỷ và của tất cả những gì điên rồ nhất. Tôi không đổ lỗi cho ai cả. Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn".

Vào cuối phiên tòa, gã quay về phía Platt: "Thưa bà, giờ đây tôi vẫn còn đấu tranh để thoát khỏi nỗi ám ảnh quá khứ. Vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Tôi chưa thể có mặt ở cuộc sống tự do".


Không có gì phải ngạc nhiên khi vấn đề ân xá bị từ chối. Gã sát thủ khét tiếng này rất tiến bộ trong thời gian ở tù. Gã thường giúp đỡ bạn tù và làm tốt vai trò thư ký cho vị giáo sĩ nhà tù. Trong thời gian thụ án, gã hoàn tất khóa học hai năm của một trường đại học quốc gia cũng như các chương trình giáo dục nhân phẩm khác. Gã cũng tỏ ra rất ăn năn với quá khứ tội lỗi của mình. Tuy nhiên, hội đồng cũng nhận thấy rằng "nỗi đau, sự giận dữ mà Berkowitz đã gây nên trong các gia đình nạn nhân đã có tầm ảnh hưởng lên toàn nước Mỹ. Việc tha gã sẽ tạo ra một tiền lệ không hay và khiến luật pháp bị khinh nhờn". Phiên tòa xét ân xá kế tiếp cho Berkowitz diễn ra vào tháng 6/2004 cũng kết thúc tương tự. Năm đầu tiên ở tù, Berkowitz thường xuyên vi phạm kỷ luật. Sau khi theo đạo Cơ-đốc, tinh thần gã trở nên ổn định hơn. 
Tất nhiên, Berkowitz cũng đủ thông minh để biết rằng, gã sẽ chẳng bao giờ có cơ hội đến với cuộc sống tự do và gã buộc phải thích nghi với những song sắt. Liệu có phải việc theo Cơ-đốc giáo là trò đánh lừa nhằm tìm kiếm sự ân xá? Chắc chắn là không bởi Berkowitz thừa biết rằng sự ân xá nằm ngoài tầm với của gã. Niềm tin vào tôn giáo sẽ giúp tâm hồn gã thanh thản hơn trong chốn ngục tù. Ở độ tuổi gần xế chiều, gã đang cố gắng vượt qua nỗi ám ảnh về một kẻ giết người mà gã từng tạo ra trong quá khứ. Con đường đến với tự do của Berkowitz thật dài, dài đến bất tận. Từ nay đến cuối đời, gã sẽ phải ở đấy, giữa những song sắt nhà tù và gã biết rằng, gã sinh ra để ở đấy.
Nguồn: chapcathegioi.com

Vụ Án Kinh Hoàng